Lễ hội là hoạt động diễn ra nhiều nghi lễ bắt buộc. Các nghi lễ này được thực hiện theo trình tự nghiêm ngặt từ khi chuẩn bị lễ hội đến khi kết thúc lễ hội. Thông thường, một lễ hội có các nghi thức: lễ bàn gỗ, lễ tế thần, lễ diễu hành, lễ khai mạc và lễ tiễn biệt. Lễ hội thực sự phát huy các giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng, hướng thiện, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, khôi phục các giá trị văn hóa, nghi lễ truyền thống. Vừa truyền thống vừa đảm bảo bản sắc được duy trì và phù hợp với cuộc sống đương đại.
Các nghi lễ truyền thống ở Việt Nam
Lễ mộc dục
Lễ mộc dục (lễ tắm tượng thần hay thần vị): lễ này thường được tiến hành vào nửa đêm hôm trước ngày khai hội. Trước khi làm lễ mộc dục, có nơi người ta tổ chức lễ rước nước. Trước khi thực hiện việc tắm tượng (lau chùi tượng thờ) phải làm lễ cáo thần. Sau lễ mộc dục là tế gia quan (mặc áo, đội mũ cho tượng thần). Nếu thần không có tượng mà chỉ có bài vị (thần vị) thì áo mũ đặt lên ngai. Sau đó tượng thần (hay thần vị, hoặc có khi chỉ là áo mũ) đặt lên kiệu, chuẩn bị cho đám rước thần sáng ngày khai hội.
Lễ rước trong các lễ hội truyền thống
Lễ rước: trong một lễ hội thường có rước thần, rước thành hoàng, rước văn hay rước nước. Lễ rước thần hay rước thành hoàng thường cử hành trước khi vào lễ khai hội và kết thúc hội. Nội dung, ý nghĩa của lễ rước ở mỗi lễ hội đều có sự khác biệt về đối tượng rước, cách thức tiến hành, trình tự đoàn rước, thành phần người tham gia… Trong số các lễ rước thì rước thần và rước nước phổ biến hơn cả.
Lễ hội thường tôn vinh đối tượng thiêng, đó là “Thánh”, “Thần”, nhưng thánh và thần thường được thờ ở đền, miếu. Đa số lễ hội thường được tổ chức ở đình làng, đền, nơi rộng rãi tiện cho việc hành lễ và tổ chức các trò chơi. Do vậy trước khi khai hội, người ta thường tổ chức cuộc rước thần đi theo lộ trình từ đền hoặc đình về nơi hành lễ, xong hội lại rước thần trở lại nơi thờ cũ.
Sau lễ rước sẽ là lễ tế thần và khai hội. Đặc biệt có nơi, trong dịp lễ hội ngày nào cũng có rước, lễ rước này không phải rước thần mà là rước sớ (rước văn), tức bài văn cúng thần. Mỗi ngày người ta cúng thần bằng một bài sớ riêng. Trong đám rước văn, bài sớ cũng được đặt lên kiệu rước, gọi là kiệu văn.
Những quy định của lễ rước
Lễ rước trong các lễ hội truyền thống thường quy định người trực tiếp tham gia rước. Phải là nam giới tuổi từ 18 trở lên, không có phụ nữ. Trừ một vài lễ hội thờ nữ thần (như lễ hội Phủ Dày. Lễ hội Hạ Lôi) đoàn rước lại chủ yếu do nữ đảm nhiệm.
Người tham gia rước (gọi là giai đô), là những người được dân làng lựa chọn, cắt cử. Họ là những chàng trai khoẻ mạnh, có tài có đức. Không có điều tiếng đáng chê trách trong làng xóm. Ai được chọn trong đội rước là vinh dự cho bản thân và gia đình.
Đám rước khi đi đường có biểu tượng riêng để tránh sự trùng lặp giữa các nhóm cộng đồng. Trước khi khởi hành, chiêng, trống nổi lên từ trong đền, đình (trước đây đốt pháo). Thường từ nửa đêm, tiếng trống đã gióng liên hồi để mọi người đều biết. Ai có phận sự phải lo sửa soạn trước. Ngày xưa thường đốt pháo lệnh trước khi đám rước bắt đầu.Ngày giã đám (xuất tịch) thường có một buổi đại tế cuối cùng gọi là tế giã đám. Nghi thức này cũng thực hiện với đầy đủ các bước theo quy định.
Kết luận
Lễ hội dân gian là một di sản đặc biệt để lưu giữ, trao truyền văn hóa giữa các thế hệ. Đến với lễ hội, người dân không chỉ được hưởng thụ tinh thần văn hóa dân tộc. Tâm lý cộng đồng mà còn được trực tiếp sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa. Để đáp ứng nhu cầu phục vụ đời sống tinh thần của chính mình. Vì thế việc nâng cao ý thức, ứng xử văn minh trong lễ hội là vấn đề quan trọng nhằm gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội nói riêng và cũng là cách khẳng định vẻ đẹp của cảnh sắc và con người miền Đất Tổ nói chung.